Ngành tôm nuôi đang bùng nổ và chế độ dinh dưỡng của chúng cũng trở nên phức tạp hơn. Do đó, cần phải hiểu sâu hơn về cách sử dụng các loại phụ gia để đạt hiệu quả dinh dưỡng tối ưu.
Sử dụng phụ gia trong nuôi tôm giúp gia tăng giá trị
Kháng sinh là chủ đề nóng trong ngành tôm nuôi hiện nay. Thách thức đặt ra là vừa duy trì được hiệu suất tăng trưởng trên tôm, đồng thời giảm sử dụng kháng sinh. Vấn đề này có thể giải quyết được bằng phytomolecules, axit hữu cơ và prebiotics như một giải pháp thay thế kháng sinh. Sự kết hợp khéo léo tất cả phụ gia trên trong thức ăn sẽ đồng thời sẽ phát huy tác dụng tích cực của từng loại phụ gia và bổ sung thêm hiệu quả tổng hợp. Nhưng, để đạt hiệu quả dinh dưỡng tối ưu, cần phải áp dụng phương pháp phù hợp với những đặc tính riêng của từng loại.
Thách thức dịch bệnh
10 năm qua, tốc độ tăng trưởng kép của ngành tôm toàn cầu đạt gần 10%. Năm 2017, tổng sản lượng tôm đạt 6 triệu tấn và sử dụng 8,5 triệu tấn thức ăn. Sản lượng tôm nuôi tăng do khai thác tự nhiên bị trì tệ kể từ năm 2003. Ngày nay, chất lượng thức ăn ngày càng được cải thiện đã giúp sản lượng tôm tăng cao hơn, cùng đó, nhiều công nghệ mới ra đời, giúp nông dân tăng mật độ thả nuôi.
Dịch bệnh là thách thức lớn nhất của ngành tôm hiện nay. Năm 2017, dịch bệnh làm ngành tôm thiệt hại khoảng 2 tỷ USD. Những dịch bệnh phổ biến phải kể đến bệnh hoại tử gan tụy cấp EMS/AHPND, hội chứng phân trắng (WFS), hội chứng đốm trắng (WSS), hội chứng vi bào tử trùng (EHP) và hội chứng chết liên tục (RMS). Mật độ nuôi dày đặc, chất lượng nước kém và thiếu dinh dưỡng là điều kiện tiền đề tốt nhất cho các dịch bệnh này; từ đó, khiến tôm nhạy cảm hơn với mầm bệnh, dễ ốm yếu và giảm hiệu suất phát triển.
Giải pháp từ phụ gia thức ăn
3 nhóm sản phẩm chính được sử dụng như phụ gia trong nuôi tôm gồm phytomolecules, axit hữu cơ và prebiotics.
Phytomolecules
Trong NTTS, phytomolecules - còn gọi là các phân tử thực vật chính là những hoạt chất carvacrol và hợp chất cinnamaldehyde tồn tại được trong khoảng thời gian dài. Cả hai chất này đều làm vi khuẩn suy yếu và ngăn chặn chúng phát triển bằng cách can thiệp vào các quá trình trong tế bào vi khuẩn. Ví dụ, hai chất này phá vỡ trao đổi enzyme vi khuẩn và ngăn chặn sự sinh sôi của vi khuẩn. Mức độ của hiệu quả ức chế phụ thuộc vài liều lượng phytomolecules; để có được phụ gia thức ăn dạng lỏng dễ sử dụng, thì phytomolecules được ổn định bằng một chất nhũ hóa. Hoạt chất carvacrol và hợp chất cinnamaldehyde chính là những công cụ hữu ích để cải thiện tiêu hóa và sức khỏe đường ruột của vật nuôi một cách hiệu quả.
Axit hữu cơ
Rất nhiều nghiên cứu về các loại axit hữu cơ như citric, propionic và axit fomic đã chỉ ra rằng, axit hữu cơ ảnh hưởng tích cực lên tăng trưởng, miễn dịch và đề kháng của vật nuôi trước nhiều loại vi khuẩn Vibrio.
Prebiotics
Prebiotics được sử dụng khá phổ biến trong NTTS. Một nguồn của prebiotics là các thế bào nấm men. Vách tế bào của nấm men bánh mỳ (Saccharomyces cerevisiae) chứa betag lucans và mannan-oligosacchires. Một trong những tác dụng tích cực của prebiotics trong hệ đường ruột là ngưng kết mầm bệnh. Những vi khuẩn có hại như Vibrio spp bị kết dính trong các phức hợp và bị đào thải dần. Một tác dụng tích cực nữa đó là thúc đẩy các lợi khuẩn trong đường ruột. Chỉ một số vi khuẩn nhất định có thể sử dụng mannan-oligosacchirides như một nguồn năng lượng, ví dụ lactobacilli và bifidobacteria. Những lợi khuẩn này giúp tôm hấp thụ và sử dụng dinh dưỡng; chúng cũng tạo ra các chất chuyển hóa như axit hữu cơ có tác dụng ức chế sự phát triển của mầm bệnh.
Sử dụng hợp lý
Điều quan trọng nhất là cần phải biết cách sử dụng các loại phụ gia thức ăn để ngăn ngừa chúng bị hư hỏng hay mất tác dụng. Các hãng thức ăn chăn nuôi cần phải biết phytomolecules không có tính bền nhiệt. Xử lý nhiệt làm phytomolecules giảm hiệu lực, thậm chí khiến phụ gia này phản tác dụng. Để tránh những tác động tiêu cực, các chuyên gia dinh dưỡng đề xuất phương pháp phủ phytomolecules lên thức ăn bằng trống trộn hoặc máy phủ hút chân không sau khi ép viên. Hỗn hợp đồng nhất với dầu được giữ trong chuyển động xoay trong bể chứa của máy phủ nhằm tạo ra sự phân chia đồng đều các chất phụ gia suốt quá trình phủ ngoài. Loại và chất lượng của dầu phù hợp với nguồn cung sẵn có tại địa phương và khả năng hấp thụ chất béo của thức ăn. Thành tế bào nấm mem, trái lại, tương đối bền nhiệt và có thể được bổ sung vào nguyên liệu thức ăn của khẩu phần cơ bản trong máy trộn.
Các thử nghiệm cho thấy, phụ gia thức ăn còn lại bên trong hoặc trên thức ăn do bề mặt chất béo và đặc tính kỵ nước của nhũ tương; nghĩa là sản phẩm sẽ ổn định hơn khi được đưa vào môi trường nước.
Phytomolecules cũng như prebiotics đều là công cụ hiệu quả trong NTTS. Sự kết hợp cả hai phụ gia này càng gia tăng lợi ích nhờ hiệu quả tổng hợp. Để đạt hiệu quả tối đa, phụ gia cần phải đưa vào thức ăn tùy theo đặc tính riêng của chúng.
Phytomolecules, axit hữu cơ và prebiotics phải được trộn lẫn đồng nhất với một chất kết dính như rỉ mật, gelatin hoặc dầu và phân phối vào thức ăn của tôm đã chuẩn bị sẵn. Điều này có thể thực hiện trên bạt nhựa, chậu hoặc máy trộn.
Nguồn Thủy Sản Việt Nam